Cung Phúc Đức chưởng quản về mặt cảm thụ tinh thần. Phân tích Cung Phúc Đức, chúng ta sẽ thấy được trạng thái tinh thần, sự cảm thụ và phương thức tư tưởng của mỗi con người cụ thể trong đời sống xã hội…
Khi luận đoán, Cung Phúc Đức gắn chặt với các cung : Cung Tài Bạch, Cung Phu Thê, Cung Thiên Di. Có nghĩa là khi xem xét Cung Phúc Đức, đồng thời phải xem xét cẩn thận các Cung Tài Bạch, Phu Thê, Thiên Di để có thể đưa ra lời luận đoán chính xác nhất…
Phá Tí Ngọ trưởng phiêu lưu
Thủy Kim hợp cách, Sửu Mùi Khúc Xương
Dần Thân không Kiếp cơ hàn
Cự Cơ Mão Dậu phúc càng thêm hay
Thìn Tuất Tham Vũ cũng hay
Chớ ai Tị Hợi phúc bầy Không Vong
Thất Sát tròn thẳng mà dài
Tham lang Phượng Cát là loài chim muông
Liêm trinh ngộ Hỏa tiêm đầu
Thiên Lương có chẩm gối đầu thảnh thơi
Hai Quan Tướng Phá cùng ngồi
Tướng trong là giáp tướng ngoài là chiêng
Tổ sớm Tử Phủ một miền
Những sinh có nước tả truyền hữu lai
Phòng văn đồ duệ án tiền
Tân giêng tân bút chấn canh cổ kỳ
Cô Hoa lộc, bảng Khoá Khoa
Ngựa đi Thiên Mã voi quỳ Kình Dương
Văn Khôi Vũ việt thinh đường
Tả Long hữu Hổ thuận tường phân kim
Kiếp Không, Tuần triệt gia liên
Có ông mất mả ở miền quan sơn
Tang Môn Cô Quả Đào Hồng
Họ hàng có kẻ goá chồng cô đơn
Khốc Hư Cơ Cự muôn vàn
Đường đi lẩn quất Vũ nhàn Triệt không
Đà tiền ngộ Mã Tướng xung
Trai bị hình ngục gái phòng nghiệt thương
Rễ cây khôn tránh khỏi đường
Phá Liêm Mão Dậu Điếu Tang một toà
Lộc nhàn Mã ngộ Kiếp Không
Long phi Hổ tấu một dòng phiên lưu
Lộ bằng Triệt ngộ Phá Quân
Đà La diệu táng mộ phần đảo thi
Mã Đà gái lấy chồng xa
Thiên Cơ Hư nhuận bệnh ra điên cuồng
Thái Dương tam đại mộ phần
Thái Âm tam đại âm nhân rõ ràng
Ngộ hãm tứ đại tổ đường
Thiên Đồng tam đại thời phân bốn đời
Vũ Khúc thiên Tướng năm đời
Cơ Tham thứ sáu bẩy đời cự Lương
Tả phụ thượng tổ ngôi Dương
Hoa cái mộ mới cũng ngôi Hỉ Thần.
( Trích Tử Vi Áo Bí của Việt Viêm Tử )
Tác dụng của Cung Phúc Đức trong môn Tử Vi là dùng để luận đoán hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần của một người. Nếu so với cung mệnh và cung thân, có thể nói cung mệnh và cung thân là chủ về hưởng thụ vật chất, vận trình thực tế. Còn Cung Phúc Đức thì chủ về những thứ trừu tượng hơn.
Có một số người nhìn bề ngoài thì thấy danh thành công toại, khiến người ta phải ngưỡng mộ. Nhưng có thể nội tâm của anh ta đang đau khổ mà người ngoài cuộc không biết. Đây là vì cung mệnh và cung thân của anh ta tốt, nhưng Cung Phúc Đức lại có những khiếm khuyết đáng tiếc. Hoặc ngược lại, có một số người chỉ được no ấm thôi, nhưng nội tâm của họ lại rất vui vẻ, đây là do cung mệnh và cung thân không tốt mấy, nhưng Cung Phúc Đức lại tốt.
Cung Phúc Đức và Cung Tài Bạch đối nhau, có thể thấy sinh hoạt tinh thần vẫn không thoát khỏi sự ràng buộc của tiền bạc. Hội chiếu với “Cung Phu Thê”, cũng đủ thấy sự hưởng thụ tinh thần của một người có tương quan mật thiết với sinh hoạt tình cảm vợ chồng. Cũng tương hội với Cung Thiên Di, là do hoạt động tư tưởng của người ta có thể ảnh hưởng đến động hựớng người đó. Ở quê nhà hay đi xa để tìm hướng phát triển, thường chỉ quyết định trong một ý niệm.
Những điều trình bày trong bài viết này sẽ lấy tình trạng tốt xấu của sự hưởng thụ tinh thần làm điểm chính yếu. Còn về phương diện hoạt động tư tưởng, do mỗi người được giáo dục ở nhiều mức độ khác nhau, rất khó tiến hành giảng giải một cách cụ thể, chỉ có thể đưa ra một số điểm chính yếu quan trọng.
Khi luận đoán Cung Phúc Đức, lấy các sao ở Cung Phúc Đức của thiên bàn làm chủ, dùng để luận đoán bản chất tư tưởng và xu thế chủ yếu về phương diện hưởng thụ tinh thần của mệnh tạo. Cung Phúc Đức của đại hạn và lưu niên (nhân bàn) dùng để xem biến thiên theo từng năm mà luận đoán sự thay đổi.
Như Cung Phúc Đức của thiên bàn là Tử Vi, tức Tử Vi là bản chất, trong một vận trình gặp Thiên Cơ ở Cung Phúc Đức của đại hạn, tinh thần đôn hậu vững vàng của Tử Vi vẫn không thay đổi. Nhưng lại chủ về mệnh tạo sau khi lớn lên sẽ tăng thêm tính linh động, mưu trí và quyền biến.
Như vậy khi luận đoán nhất thiết không được xem thường tính chất chủ yếu của Cung Phúc Đức nguyên cục.
Cung Phúc Đức có Sao Tử Vi, thông thường đều chủ về có nhân phẩm đôn hậu ôn hòa, nhưng tính chủ quan rất mạnh. Bởi vì Tử Vi là đế tinh, tự nhiên sẽ ưa lấy ý kiến của mình làm ý kiến chung của mọi người.
Tử Vi thủ Cung Phúc Đức, thông thường chủ về tư tưởng cao thượng. Hoặc có ham muốn lãnh đạo và ưa chi phối người khác.
Sao Thiên Cơ ở Cung Phúc Đức, thông thường chủ về có tư tưởng nhạy bén. Nhưng cũng chính vì vậy khiến tinh thần của mệnh tạo không được yên.
Nếu Thiên Cơ Hóa Kỵ, lại chủ về làm việc lo trước sợ sau. Gặp chuyện không cách nào giải quyết vấn đề, dẫn đến tiến thoái thiếu chừng mực, nhiều lo nghĩ ưu phiền.
Nếu Thiên Cơ có Kình Dương, Đà La hội chiếu, thì chủ về tự tìm buồn phiền. Không có chuyện thì tự tìm cho ra chuyện, dẫn đến suốt ngày bận rộn bôn ba.
Nếu Thiên Cơ có Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Đại Hao hội chiếu, thì chủ về không có hưởng thụ tinh thần, suốt ngày bôn ba bận rộn, tâm buồn phiền, thân không được yên tịnh.
Nếu Thiên Cơ có cát tinh hội chiếu hoặc đồng độ, thì chủ về lao tâm mà thân nhàn. Nhưng tình trạng lao tâm cũng không đến nỗi không giải quyết được để dẫn đến những tình huống bối rối khó xử một cách vô vị. Nhưng mệnh tạo là người theo đuổi sự hưởng thụ tinh thần, hoặc để giết thời gian, nên ưa học nhiều thứ nhưng lại không thích đào sâu.
Thái Dương không lúc nào ngừng di động trên bầu trời, Do đó lúc thủ Cung Phúc Đức, chủ về bôn ba, bận rộn không ngừng nghỉ, nhưng dù thân vất vả mà chưa chắc đã lao tâm.
Thái Dương Hóa Kỵ, chủ về dễ chuôc thị phi. Hay tự đặt mình vào tình huống bối rối khó xử, vất vả một cách vô ích. Nếu gặp thêm sát tinh, chủ về hay nhận lỗi thay cho người khác, dẫn đến tinh thần không yên.
Thái Dương thủ Cung Phúc Đức, nhập miếu, chủ về nhiệt tình với người phối ngẫu, sinh hoạt hôn nhân có nhiều lạc thú. Nếu gặp các sao đào hoa, thì nên đề phòng mệnh tạo không thể phối hợp với người phối ngẫu một cách hài hòa.
Vũ Khúc là sao tiền tài, nên khi Sao Vũ Khúc ở Cung Phúc Đức chủ sự hưởng thụ tinh thần ắt cũng sẽ lấy vật chất làm cơ sở, Vũ Khúc Hóa Lộc thì càng nặng, Tham Lang đồng độ cũng càng nặng.
Nếu Vũ Khúc Hóa Kỵ ở cung phúc đức, thì kiếm tiến cũng là một sự hưởng thụ tinh thần, Gặp sát tinh lại chủ về bủn xin, keo kiệt, tham lam. Nếu gặp các sao Thiên Nguyệt, Thiên Hình, Thiên Hư, Âm Sát, Đại Hao, thì có thể thân mang bệnh tật, hoặc đặc biệt nghiện một thứ gì đó ảnh hưởng đến sự hưởng thụ tinh thần. Cần phải phối hợp cung tật ách và cung mệnh mà luận đoán.
Do theo đuổi vật chất, cho nên lúc sao Vũ Khúc ở cung phúc đức thường chủ về lao tâm khổ tứ dù bề ngoài sinh hoạt vật chất rất sung túc, nhưng về tinh thần thì trống rỗng. Nhất là tổ hợp “Vũ Khúc Phá Quân”, chủ về cuộc đời không có lí tưởng, không có mục tiêu. Gặp sát tinh thì càng thiếu sự hưởng thụ tinh thần, còn không chịu yên tĩnh, lấy bôn ba bận rộn làm niềm vui.
Vũ Khúc ưa gặp Liêm Trinh Hóa Lộc hay Tham Lang Hóa Lộc tương hội hoặc đồng độ. Trường hợp trước chủ về tinh thần vui vẻ, trường hợp sau chủ về lấy giao lưu xã hội làm niềm vui. Cho nên trường hợp trước thiên về tinh thần hơn, trường hợp sau thì thiên nặng về vật chất.
Vũ Khúc gặp Liêm Trinh Hóa Kỵ tương hội, chủ về thường cảm thấy tinh thần trống rỗng, gặp sát tinh thì có trục trặc về tâm trạng.
Vũ Khúc gặp Liêm Trinh Hóa Kỵ hội hợp, chủ về suốt ngày cập rập không yên, tuy giàu có mà vẫn sợ bị túng thiếu.
Vũ Khúc có các sao đào hoa đồng độ, nếu đồng thời gặp thêm các sao khoa văn thì ưa quyến luyến chuyện trăng gió, lấy đó làm sự hưởng thụ tinh thần, Vũ Khúc gặp Tham Lang đồng độ thì càng đúng.
Vũ Khúc đồng cung với Thiên Trù, Hỏa Tinh ở cung phúc đức, chủ về giỏi bình phẩm về ẩm thực. Có Kình Dương, Đà La đồng độ là người thích ăn uống. Tinh hệ “Vũ Khúc Phá Quân” đồng độ ở cung phúc đức thì càng đúng.
“Vũ Khúc Thiên Phủ” gặp các sao sát, kị thì có tính chủ quan. Gặp các sao phụ, tá cát thì hứng thú về thương nghiệp, giỏi quản lý.
Tính chất cơ bản của “Vũ Khúc Thiên Phủ” là thân nhàn nhưng lao tâm. Nhưng nếu có Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ thì không những nội tâm hay lo lắng, buồn rầu, mà còn vất vả.
“Vũ Khúc Phá Quân” không những chủ về nội tâm bối rối, mà còn chủ sự bôn ba bất an, Gặp sát tinh thì càng nặng, cuộc đời khốn khó. Nhưng nếu “Vũ Khúc Phá Quân” đồng cung với các sao khoa văn thì đương số là người có kiến giải đặc biệt, sở trường nhất là phá bỏ các nguyên tắc khô cứng.
“Vũ Khúc Thất Sát” đồng độ ở cung phúc đức, chủ về bôn ba bận rộn. Gặp sát tinh thì thân tâm đều vất vả, gặp Thiên Mã thì tâm tư bất định, làm việc trồi sụt thất thường.
“Vũ Khúc Thiên Tướng” ở cung phúc đức, chủ về dễ xuôi theo dòng nước. Gặp cát tinh, mới có thể thừa thế khéo lợi dụng cơ hội.
“Vũ Khúc Tham Lang” chủ về chìm đắm trong vật dục, có các sao đào hoa đồng độ thì ưa quyến luyến chuyện trăng gió, có các sao khoa văn đồng độ cũng vậy. Nếu có các sao đào hoa và các sao khoa văn cùng bay đến, tuy trăng gió nhưng khá cao thượng.
Thiên Đồng hóa khí là “phúc tinh”. Vì vậy rất nên nhập Cung Phúc Đức. Đây cũng là sao rất tốt của Cung Phúc Đức, chủ về được hưởng phúc.
Thiên Đồng chủ về hưởng phúc, khác với cách hưởng phúc của Vũ Khúc. Vũ Khúc là sao tiền bạc, cho nên cách hưởng phúc nặng về tiền bạc và vật chất, sự hưởng thụ tinh thần phần nhiều cũng do vật chất mang lại. Thiên Đồng là phúc tinh, sự hưởng thụ lớn nhất của nó là có được tâm trạng vui vẻ.
Sự hưởng phúc của Vũ Khúc có thể là do tính ít lo toan nghĩ ngợi. Nhưng sự hưởng phúc của Thiên Đồng lại có thể do người khác an bài cho mệnh tạo. Cho nên bản thân vốn không cần lo toan nghĩ ngợi, như vậy cũng dễ tăng thêm tính lười biếng của Thiên Đồng.
Sự hưởng phúc của Thiên Đồng cũng khác với Tử Vi và Thiên Phủ. Sự hưởng phúc của Tử Vi và Thiên Phủ là do ở danh thành công toại, cho nên cuộc sống an nhàn. Còn Thiên Đồng tuy là sao phúc, nhưng không chủ về danh lợi bất kể cảnh ngộ như thế nào cũng chỉ là được hưởng thụ sinh hoạt tình cảm thú vị.
Do đó người có Thiên Đồng thủ Cung Phúc Đức, nếu nhập miếu, trong lòng thường vui vẻ, tính tình chất phác. Dù đang làm việc, cũng có niềm vui trong công việc, họ có thể tìm thấy sự thú vị trong lúc làm việc.
Thiên Đồng thủ Cung Phúc Đức, thường chủ về ưa thích âm nhạc. Gặp sao văn, thì ưa thích văn nghệ. gặp các sao đào hoa, thì ưa thích trang điểm, chải chuốt, mà lối sống có phẩm vị đặc biệt.
Thiên Đồng có các Sát tinh, Kỵ, Hình, hao hội hợp, vẫn chủ về tinh thần vui vẻ, nhưng sinh hoạt vật chất không dư giả. Cho nên có thể là người an bần lạc đạo.
Liêm Trinh thủ Cung Phúc Đức, thông thường chủ về bận rộn, vất vả. Hoặc tuy giàu có nhưng vẫn nhiều lo lắng, thích bôn ba bận rộn. Hoặc chủ về không chú ý cách bài trí nơi mình sinh sống, có cảm giác hỗn loạn. Liêm Trinh Hóa Kỵ thì càng đúng.
Liêm Trinh được hội cát tinh, vẫn chủ về bận rộn, vất vả, nhưng nhiều hưởng thụ. Liêm Trinh thủ Cung Phúc Đức, chủ về thích cuộc sống căng thẳng, đầu óc cũng không được bình tĩnh. Hơn nữa, tư tưởng thì như ngựa phi vượn nhảy, không thể chuyên chú suy nghĩ vào một vấn đề.
Liêm Trinh có Hỏa Tinh và Linh Tinh đồng độ, chủ về tính tình hời hợt nóng nảy. Liêm Trinh có Kình Dương và Đà La đồng độ, thường không thể nhẫn nhịn người khác, dễ xảy ra tranh chấp, hay có tình huống bối rối khó xử.
Liêm Trinh Hóa Kỵ thủ Cung Phúc Đức, thì thường thấy cập rập suốt ngày. Lo nghĩ nhiều nhưng phần nhiều lại không có căn nguyên, không có ý niệm kiểm soát. Nếu lại có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, thì sinh hoạt vật chất túng thiếu, còn tinh thần thì cảm thấy trống rỗng. Gặp các Sát tinh, Hình, Kỵ nặng thì đời người không có lạc thú.
Thiên Phủ nhập Cung Phúc Đức, chủ về tư tưởng vững vàng, khoan dung, đôn hậu. Nếu người khác phạm sai lầm, thường có lòng tha thứ.
“Thiên Phủ, Lộc Tổn” đồng độ, phần nhiều mang hết tinh thần dồn vào việc quản lý tài chính. Gặp Đà La đồng độ, chủ về có tính keo kiệt, bủn xỉn.
Thiên Phủ thủ Cung Phúc Đức, cuộc đời của mệnh tạo truy cầu một cuộc sống ổn định, cho nên rất xem trọng lợi ích trước mắt. Lúc có công việc mới, hoặc lúc cần phải cải cách công việc cũ, họ lại cảm thấy căng thẳng, lo nghĩ nhiều.
Thông thường, hội các sao phụ, tá cát diệu thì chủ về yên ổn. Nếu có Đà La, Hỏa Tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì phần nhiều hay lo nghĩ một cách vô căn cứ. Nếu có Kình Dương, Thiên Hình đồng độ hoặc hội chiếu, thì lòng nhiều phiền muộn. Nếu có Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao đồng độ, thì chủ về không được yên tĩnh, ngày đêm bận rộn vất vả.
Thái Âm thủ Cung Phúc Đức, nhập miếu, chủ về mệnh tạo có khuynh hướng hưởng lạc. Nhưng “hưởng lạc” ở đây, lại không đơn thuần là hưởng thụ vật chất, mà là vận dụng văn minh vật chất của thời đại để hưởng thụ về phương diện tinh thần. Cho nên biểu hiện sự cao thượng, thanh nhã, hoặc khiến người ta cảm thấy một sự cách điệu nơi họ.
Sao Thái Âm chủ về tĩnh, ẩn tàng, nên người có Thái Âm thủ Cung Phúc Đức thông thường đều không chịu bôn tẩu, bận rộn, vất vả, thà lao tâm. Nếu Thái Âm Hóa Kỵ, phần nhiều chủ về có bề ngoài yên tĩnh, nhưng nội tâm thì nhiều lo toan nghĩ ngợi.
Người có Thái Âm thủ Cung Phúc Đức, tư tưởng không có khuynh hướng cạnh tranh, lại không ưa xảy ra những trở ngại mới, có lúc khá thiên về lý tưởng. Nếu có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ, thì dễ rơi vào tình trạng không tưởng, chứ không phải lý tưởng, cách nhau một ly nhưng khác biệt ngàn dặm.
Nếu Thái Âm có Hỏa Tinh và Đà La đồng độ, thì thường tự tìm bận rộn, vất vả.
Nếu có Kình Dương và Linh Tinh đồng độ, thì theo đuổi lý tưởng, vĩnh viễn không bao giờ hài lòng, dễ khiến họ nghĩ ngợi nhiều và cảm thấy đời người thật quá bi lụy.
Tham Lang thủ cung phúc đức, chủ về phóng túng, gặp sát tinh, đương nhiên hưởng lạc, phóng túng. Dù gặp cát tinh hội hợp, cũng chủ về say sưa trong thú vui. Tính chất của thú vui, có thể xem các tổ hợp sao cụ thể mà định.
Cung phúc đức gặp cách cục “Phiếm thủy sao đào hoa” hay “Phong lưu thải trượng”, chủ về hiếu sắc. Nhưng nếu có Hỏa Tinh, Thiên Hình tụ hội thì chủ về thích kinh doanh những nghề nghiệp có sắc thái đào hoa, hoặc có sắc thái mạo hiểm để cầu bạo phát bạo lợi, Tham Lang Hóa Lộc thì càng đúng.
Tham Lang hội các sao đào hoa, cuộc đời phong lưu, có tài nghệ đặc biệt khiến người khác giới chao đảo.
Tham Lang ở cung Ngọ thì chủ về hiếu danh. Tham Lang ở cung Thân thì chủ về hám lợi. Tham Lang ở hai cung Thìn hoặc Tuất thì thích đầu cơ, gặp cát tinh càng đúng.
Tham Lang đồng cung với Kình Dương, Đà La, chủ về cuộc đời gặp nhiều tình huống rối rắm, bất hòa, tranh chấp, ưa giao du, nhưng vì giao du mà chuốc thị phi, buồn phiền.
Tham Lang đồng độ với Hỏa Tinh, Linh Tinh, chủ về tính nóng vội, gặp sao lộc, thì thích hào nhoáng bề ngoài. Nếu đồng thời gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, sau trung niên sẽ trở lại cuộc sống bình đạm.
Tham Lang đồng cung với Văn Xương, Văn Khúc, có khuynh hướng về nghệ thuật, nhưng thiên về động thái.
Cự Môn là ám tinh, nên khi thủ Cung Phúc Đức, dù nhập miếu và có sao phụ, tá cát tinh hội chiếu. Vẫn chủ về hiếu sự, thích thị phi, hơn nữa còn đa nghi và hay đô Kỵ. Cho nên khó tránh phải lao tâm phí sức lo liệu nhiều việc, việc gì cũng muốn đích thân làm.
Nếu Cự Môn Hóa Kỵ, thì tính đa nghi càng nặng, hành động thường do dự, làm việc hay bỏ dở nửa chừng. Nếu lại gặp Thiên Cơ đồng độ thì tính hay thay đổi nửa chừng trước khi công việc hoàn thành càng mạnh. Dẫn đến không những hao phí tinh thần, mà còn nảy sinh sự hối tiếc trong lòng và không giữ chữ tín với người khác. Dù Cự Môn không Hóa Kỵ, mức độ cũng chỉ giảm nhẹ.
Cự Môn thủ Cung Phúc Đức, có sao phụ, tá cát hội chiếu, chủ về được hưởng thụ sinh hoạt vật chất, nhưng tinh thần vẫn ít khi cảm thấy thoải mái. Cần phải có Thiên Đồng đồng độ, mới có thể cảm thấy tâm thần yên ổn, không có cái tâm nghi ngờ, thay đổi và hối tiếc.
Cự Môn thủ Cung Phúc Đức, nếu có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì cái tâm thị phi nghi kỵ càng thêm nặng, tạo áp lực về tinh thần. Nếu gặp các sao Hình, Kỵ, thì nhiều điều tiếng thị phi, thường gặp phiền phức, khiến thân tâm đều mệt mỏi.
Thiên Tướng thủ Cung Phúc Đức, nhập miếu, là người chính trực, rộng rãi, có tinh thần chính nghĩa, giàu lòng cảm thông. Nếu lạc hãm, thì dễ rơi vào chủ nghĩa lý tưởng, lúc hiện thực không như lý tưởng thì lòng không yên, dễ kích động. Do đó thường xảy ra thị phi phiền phức.
Cho nên, Thiên Tướng tọa thủ Cung Phúc Đức, rất kỵ có Vũ Khúc hay Phá Quân vây chiếu. Chủ về dễ kích động, hoặc bôn ba vất vả để cầu đạt tới lý tưởng. Nếu có thêm Địa Không, Địa Kiếp đồng cung, thì lý tưởng lại rơi vào không tưởng. Lâu ngày dễ biến thành nằm mơ giữa ban ngày, nhiều không tưởng mà ít có hành động thực tế.
Thiên Tướng rất ưa được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa (đặc biệt là có Thiên Phủ Hóa Khoa hội chiếu), lại được các sao phụ, tá cát hội chiếu. Thì chủ về có thể đối diện với hiện thực, có hành động thiết thực, tính cách khoan dung, đôn hậu, thẳng thắn, chân thành, có đời sống tinh thần sung mãn.
Nếu Thiên Tướng thủ Cung Phúc Đức mà gặp sát tinh hội hợp, vẫn không đủ vững vàng thiết thực, khiến không đạt được mục tiêu của lý tưởng.
Thiên Lương là sao sang quý, thanh cao. Nên khi Sao Thiên Lương thủ Cung Phúc Đức, thông thường đều chủ về có sinh hoạt tinh thần thiên nặng về vật chất, nhưng lại có tư tưởng thoát tục, đây là điều mà người bình thường khó hiểu được.
Thiên Lương ở Cung Phúc Đức, nhập miếu. Chủ về “lạc thiên tri mệnh”, bụng dạ khoáng đạt, ưa bàn suông, ít hành động. Dù có hành động thì cũng chỉ được một lát, không chịu bôn ba vất vả.
Nếu Thiên Lương lạc hãm, tính chất biến thành ưa lần nữa, uể oải, dẫn đến lỡ việc, hoặc bị hiểu lầm là bậc danh sĩ phong lưu trăng gió, thực ra là người có tư tưởng tầm thường.
Thiên Lương nhập miếu, tuy tính chủ quan mạnh, nhưng làm việc có nguyên tắc. Nếu lạc hãm, thì nguyên tắc có thể biến thành cố chấp.
Thiên Lương ớ hai cung Tị hoặc Hợi, lòng đa nghi cực nặng, nhiều lo toan nghĩ ngợi, dễ trở thành người thiếu vững vàng. Nếu hội sát tinh, nhất là gặp Kình Dương, Đà La, thì chủ về người tính toán.
Thiên Lương thủ Cung Phúc Đức ở Tị, Thân hoặc Hợi, gặp Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Mã, chủ về tính hời hợt, hiếu động.
Thiên Lương có Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc hội hợp, thì làm việc thường không rõ ràng, minh bạch, còn ưa che lâp lỗi lầm, hay cho mình là đúng, thế là cuộc đời rất dễ gặp những tình cảnh bối rối khó xử.
Thất Sát thủ Cung Phúc Đức, nhập miếu thì phẩm cách cao thượng, nhưng dễ rơi vào tình trạng lý tưởng quá cao. Cho nên dù có các sao phụ, tá cát tinh hội hợp, cũng chỉ chủ về ít bị đố kỵ. Nhưng vẫn vì lý tưởng quá cao mà ít duyên với người. Cũng chủ phu thê hình khắc. Nên chậm lập gia đình, cũng nên chậm có con.
Nếu Thất Sát có Tử Vi đồng độ, lý tưởng càng cao, cho nên càng dễ cảm thấy bất đắc chí.
Lý tưởng cao của Thất Sát khác với lý tưởng cao của Thiên Tướng. Lý tưởng của Thiên Tướng có tính chất tập thể. Ví dụ như có liên quan đến xã hội, nhân tình thế thái. Còn lý tưởng của Thất Sát thì thuần túy thuộc về cá nhân. Do đó Thiên Tướng có thể nói là lý tưởng chủ nghĩa, còn Thất Sát là chủ nghĩa cá nhân.
Thất Sát có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, Thiên Hình đồng độ, chủ về không những hao phí tâm lực, mà còn bôn ba vất vả không yên. Đồng thời duyên với người cũng không tốt, dễ chuôc tị hiềm đố Kị.
Nữ mệnh có Thất Sát ở Cung Phúc Đức, thường kết hôn muộn hoặc ở chung mà không thực hiện nghi lễ chính thức. Nếu không e rằng sẽ có “Hình thương, khắc hại”. Cần phải xem thêm các sao ở Cung Phu Thê mà đình.
Phá Quân thủ Cung Phúc Đức, nhập miếu, chủ về giỏi quyết đoán. Do đó cũng ít bị vất vả. Nếu Phá Quân lạc hãm, phàm làm việc gì cũng phải lao tâm phí sức, mà còn thiếu quyết đoán, rất dễ sinh lòng thay đổi. Cũng chính vì do dự, thiếu quyết đoán, mà làm tăng tình huống bối rối khó xử trong cuộc đời.
Nếu Phá Quân thủ Cung Phúc Đức, không có Hóa Kỵ đồng độ, mà hội tứ sát tinh. Chủ về dễ chuốc buồn phiền, hành động vẫn không ổn định. Chỉ trường hợp Phá Quân có Tử Vi đồng độ mới có thể có được tâm trạng say mê, sinh hoạt tinh thần tốt. Nhưng nếu có sát tinh hội chiếu, có lúc cũng dễ biến thành quá đà.
Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Hóa Lộc [năm sinh] ở cung phúc đức như sau:
Sao Hóa Lộc có thể xem là “tình”, là “cảm tính”; Hóa Lộc ở cung phúc đức là người lạc quan, cách suy nghĩ đầy cảm tính. Nhưng do Hóa Lộc không ở cung tam hợp của cung mệnh. Vì vậy loại cảm tính này không vì bản thân mình, mà là vì chân tình. Hơn nữa, phần nhiều mệnh tạo là người có bụng dạ rộng rãi.
Cung phúc đức còn là cung vị phụ mẫu của cung phụ mẫu, Hóa Lộc ở cung phúc đức cũng có thể chủ về chủ công ti đối xử tốt với mệnh tạo.
Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Sao Hóa Quyền [năm sinh] ở cung phúc đức như sau:
Cung phúc đức có thể xem là cung vị chủ về hứng thú, thị hiếu, còn Hóa Quyền là có hàm ý biến động mau lẹ, không cố định; trường hợp Hóa Quyền ở cung phúc đức, mệnh tạo sẽ có nhiều hứng thú và thị hiếu, tính hay thay đổi, ưa thích thời thượng.
Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Sao Hóa Khoa [năm sinh] ở cung phúc đức như sau:
Cung phúc đức là cung vị chủ về mệnh tạo có được hưởng phước hay không, do đó có thể dùng để đoán bình thường mệnh tạo có được hưởng thụ hay không? Tâm cảnh có yên bình hay không? Cung phúc đúc là cung vị chủ về hứng thú, thị hiếu … của thân tâm, trường hợp có Hóa Khoa, chủ về mệnh tạo là người rất hiểu biết ý vị tình cảm trong cuộc sống, phẩm vị của thị hiếu cũng cao, có thể dựa vào lạc thú cuộc sống để điều chỉnh tâm tình của bản thân cho thích hợp.
Dưới đây xin tóm tắt các ý tượng cơ bản của trường hợp Sao Hóa Kỵ [năm sinh] ở cung phúc đức như sau:
Là người bụng dạ rộng rãi, độ lượng, thích hưởng thụ, có phúc ấm của tổ tiên, có tiền để tiêu xài; nhưng không nhất định là có đủ phúc phận, phúc khí cũng có lúc sẽ hết, tổ nghiệp có lúc cũng không còn.
Được hưởng thụ cuộc sống vợ chồng vui vẻ, nhưng cũng ngầm chứa nguy cơ.
Có cơ hội kiếm được nhiều tiền, nhẹ nhàng, vui vẻ.
Anh chị em có thể được hường phước ấm của tổ nghiệp, sinh kế gia đình được tổ nghiệp cung ứng đầy đủ.
Thường hay thù tạc vui vẻ với bạn bè.
Người phối ngẫu thông minh, tài cán, có sở trường chuyên môn, rất có duyên với người chung quanh, có thể làm việc độc lập, sự nghiệp ổn định, trợ lực nhiều cho mệnh tạo, có phúc khí, hôn nhân tốt đẹp, công việc hay sự nghiệp gặp được cơ hội tốt, phát triển thuận lợi.
Dòng họ bà con có vận thế tốt, ờ bên ngoài có nhiều trợ lực, sàn nghiệp phát triển.
Ra bên ngoài kiếm tiền vì gia đình, có thể mua thêm nhà cửa, nhưng hôn nhân dễ có người thứ ba xen vào.
Có thể bồi dưỡng tri thức cho thị hiếu sở thích của bàn thân để thành phương tiện kiếm tiền, kết hợp công việc với thị hiếu sở thích thành một.
Có phúc ấm của tổ tiên, có tổ nghiệp, được trợ lực.
Kiếm tiền nhẹ nhàng, vui vẻ, vợ chồng có phúc cùng hưởng.
Được hưởng gene di truyền tốt, cơ thể khỏe mạnh, không có bệnh nặng.
Tổ nghiệp hưng thịnh, nhung không nhất định sẽ giữ được.
Vợ chồng vui vẻ, hạnh phúc.
Có thể có tổ nghiệp, có phúc ấm của tổ tiên.
Ở bên ngoài vui vẻ, tâm tình cởi mở, sống hòa hợp với mọi người, không so đo tính toán thị phi.
Hôn nhân vui vẻ hạnh phúc.
Là người độ lượng, không tính toán so đo với bạn bè.
Thích giao du thù tạc với bạn bè có chung thị hiếu, sở thích.
Có tổ nghiệp, có phúc ấm, sự nghiệp có căn cơ vững chắc, càng ngày càng mạnh hơn, phát triển theo nhiều hướng.
Rất có duyên với người khác giới, sau kết hôn vẫn giao du với nhiều bạn bè khác giới.
Gia vận hưng thịnh, vui vẻ quan tâm chăm lo gia đình, tiền kiếm được phần nhiều chi dụng trong gia đình.
Người phối ngẫu kinh doanh tại nhà, có thể kinh doanh làm ăn liên quan đến bất động sản, kiếm đủ tiền sẽ mua nhà.
Là người độ lượng, không có tâm cơ, không nhờ vả lục thân, tự kiếm tiền tự hường thụ.
Rẩt sẵn sàng chi tiền để hường thụ; phúc ấm không tệ, được thừa kế sản nghiệp, cho nên tiêu xài tiền mà không lo.
Người phối ngẫu có quan hệ xã hội rất tốt, công việc thuậnlợi, kiếm được tiền sẽ cùng hưởng với mệnh tạo, mệnh tạo vất và, sẽ giúp mệnh tạo kiếm tiền.
Có phúc ấm của tổ tiên, cha mẹ được hưởng gia tài, là người không tính toán so đo, bụng dạ rộng rãi.
Người phối ngẫu gặp nhiều cơ hội tốt, nhậm chức có thể được quý nhân đề bạt, nâng đỡ, chức vị cao, sáng lập cơ nghiệp có thể thành tựu.
Nặng ý thức về cái tôi, rất chủ quan, không chịu nghe lời khuyên chân thành, ưa ra oai, thích nắm quyền.
Có thể được hưởng phước ấm của tổ tiên.
Người phối ngẫu bận rộn làm ăn, lao tâm lao lực nhưng có thành tựu.
Công việc hay sự nghiệp của mệnh tạo đều gặp cơ hội tốt, thuận lợi, kiếm được nhiều tiền, sinh kế gia đình sung túc, còn được dòng họ giúp vốn.
Trong anh chị em có người thích ra oai, phách lối, ưa cạnhtranh.
Mệnh tạo chịu nỗ lực vì công việc hay sự nghiệp, người phối ngẫu có trợ lực, sự nghiệp có thành tựu.
Tổ nghiệp hưng thịnh, quy môlớn, có lực cạnh tranh.
Tô nghiệp hưng thịnh, có lực cạnh tranh, có không gian để mở rộng.
Bản thân cũng sẽ phát triến ra bên ngoài, đến nơi khác tìm cơhội.
Người phối ngẫu sẽ xa quê hương sáng ỉập cơ nghiệp, có thành tựu.
Họp tác làm ăn với người khác sẽ có không gian để mở rộng.
Con cái có tài năng, ở bên ngoài cạnh tranh với nhiều người, có thể được người ta tôn trọng.
Có tổ nghiệp hoặc được trưởng bối trợ lực, cho cơ hội kiếm tiền.
Sẽ vì hường thụ hoặc để mua chuộc cảm tình mà tiêu xài nhiều tiền cho việc giao tế thù tạc.
Người phối ngẫu có tinh thần trách nhiệm, bận rộn làm việc, có tham vọng lớn, có dục vọng kiếm thật nhiều tiên, có thể giúp mệnh tạo kiếm tiền.
Được hưởng gene di truyền tốt, cơ thể cường tráng, công năng tính dục khỏe mạnh, hiếu sắc, không biết tiết chế.
Người phối ngẫu vất vả vì công việc mà không than oán, quá lao lực làm ảnh hưởng đến sức khỏe.
Cá tính mạnh, rất chủ quan, ở bên ngoài cạnh tranh với nhiều người, không chịu thua.
Được trường bối trợ lực, có chỗ để phát huy.
Công việc hay sự nghiệp cùa người phối ngẫu có nhiều cạnh tranh đấu đá, nhưng trong hôn nhân lại đóng vai trò của kẻ yếu.
Mệnh tạo là người cố chấp, tính tình cương cường, dễ xảy ra chuyện tranh quyền đoạt lợi với bạn bè đồng sự.
Có tinh thần trách nhiệm, xem trọng sự nghiệp, rất chủ quan, có lực xung kích, được trưởng bối trợ lực mà có thành tựu.
Trong quan hệ hôn nhân, là người chủ động, đóng vai trò của kẻ mạnh
Có thể được hường tổ nghiệp, nhưng vẫn không thỏa mãn, sẽ tự tậu thêm sản nghiệp.
Người phối ngẫu có tham vọng lớn trong sự nghiệp, tranh quyền đoạt lợi tại quê nhà.
Là người ưa ra oai, thích biểu hiện cái tôi, hay tranh địa vị chủ đạo, nhưng không cố ý hại ai, mà chi mưu đồ làm cho bản thân được an nhàn, có thành tựu, mà không để ý đến cảm thụ của người khác.
Xem mình là trung tâm, không chịu nghe ý kiến của người khác, cố chấp kiến giải của bàn thân, cũng không tin số mệnh.
Cuộc sống hôn nhân có nhiều xung đột, không được ổn định.
Cha mẹ rất chủ quan, ưa cãi lí, được tổ nghiệp trợ lực, không chịu nghe ý kiến của người khác, thích hưởng thụ.
Mệnh tạo cũng thích hường thụ, dễ vì thị hiếu mà quên ngủ quên ăn, khiến sức khỏe bị tổn thương.
Hôn nhân không hạnh phúc.
Là người có tu dưỡng tính tình, lịch sự nhã nhặn, có phong độ, có khí chất, hiền hòa, không hay so đo tính toán.
Có phúc ấm của tổ tiên, có thể được hưởng tổ nghiệp.
Dùng tiền có kế hoạch rõ ràng, sinh kế gia đình ổn định, nếu gặp lúc cần tiền gấp cũng sẽ an nhiên vượt qua.
Người phối ngẫu có khí chất, có phong độ, công việc thuận lợi có danh vọng, cũng có trợ lực cho công việc hay sự nghiệp của mệnh tạo.
Ra bên ngoài kiếm tiền ít gặp sóng gió, sinh hoạt gia đình ổn định, nhà ở trang nhã thoài mái, cuộc sống hôn nhân ổn định.
Được tổ nghiệp trợ lực, tài chính ổn định, dùng tiền có kế hoạch tốt, không lãng phí, trong cuộc đời ít gặp sóng gió.
Được hưởng gene di truyền tốt, có phúc khí, cơ thể khỏe mạnh, tâm trạng yên ổn, thường được quý nhân giải nguy, là người không hay so đo tính toán, không chuốc thị phi.
Cuộc sống hôn nhân chú trọng ý vị tinh cảm, thiên nặng càm giác thỏa mãn vê tinh thần.
Có phúc ấm tổ tiên, ra bên ngoài gặp nhiều quý nhân, bình an thuận lợi, tinh thần vui vẻ.
Cuộc sống hôn nhân yên ổn.
Cung phúc đức phi Hóa Khoa nhập cung nô bộc Thích trợ giúp bạn bè, sống hòa hợp với bạn bè, đồng sự.
Đối với công việc hay sự nghiệp, trước khi hành động đều có kế hoạch, không gấp gáp xông tới, mà đi từng bước, dễ được quý nhân giúp đỡ, đề bạt, cũng dễ có thanh danh.
Có thể được hường gia sản của tổ tiên, hoặc được người ta cho tiên, nhưng không nhiều.
Gia giáo tốt, có thể giữ thành quả; về tài chính, có thể cân đối
Là người có tu dưỡng tính tình, hành sự sáng suốt, có lí lẽ, không cực đoan, có phong độ, rộng lượng, có thê tự lập, có thiện tâm, thích giúp người khác, có kế hoạch kiếm tiền rõ ràng, nguồn tiền bình ổn, ít sóng gió.
Tâm trạng ổn định, thái độ nhã nhặn, có thị hiếu lành mạnh.
Người phối ngẫu làm việc có phong độ, dễ được quý nhân trợ giúp, dễ có thanh danh.
Quan hệ hôn nhân bề ngoài có vẻ bình ổn, nhưng thực ra không êm ấm.
Cha mẹ có thế được hưởng phước ấm của tổ tiên.
Vận về già của mệnh tạo có thể được hưởng phước thanh nhàn.
Bụng dạ hẹp hòi, thiếu tu dưỡng tính tình, hay so đo tính toán, thích tranh đoạt danh lợi.
Tâm thần không yên ổn, không biết hưởng phước, khá vất vả.
Tính tình không cởi mở, hay buồn rầu tư lự, cảm thấy mình có tài mà không gặp thời.
Thích hưởng thụ, không có cảm giác an toàn, thường tiêu xài tiền lãng phí.
Vợ chồng không hòa hợp, hôn nhân khó hạnh phúc, dễ xảy ra tình trạng ờ riêng, li dị, tình cảm đô vỡ.
Khó có tổ nghiệp, sinh kế gia đình phải dựa vào bàn thân, thu nhập hay bị đứt đoạn.
Anh chị em sống với nhau không hòa hợp, khó có bạn bè tri ki.
Phần nhiều ít biết bà con dòng họ; nếu chia gia sàn sẽ không
Người phối ngẫu không có hoài bão, bụng dạ hẹp hòi, hay so đo tính toán, sự nghiệp không phát triển, không ổn định, cũng không trợ giúp cho sự nghiệp của mệnh tạo.
Công việc hay sự nghiệp của mệnh tạo không thuận lợi, tự kiếm tiền tự tiêu xài; hôn nhân khó hòa hợp, nhưng sẽ không li hôn.
Hôn nhân không được như ý, kết hôn cho có mà thôi.
Không có phước để hưởng, thường bôn ba ở bên ngoài, gia vận không tốt, gặp nhiều thị phi, khó được hưởng tổ nghiệp.
Trong nhà bất hòa, dễ xảy ra tình trạng tranh giành gia sản.
Xem trọng tiền bạc, nhưng không giữ được tiền, vì hưởng thụ mà lãng phí, gây ra tình trạng thấu chi, không được hưởng phước, tinh thần không ổn định.
Nguồn tiền không tốt, kiếm tiền vất vả.
Sự nghiệp của người phối ngẫu không kiếm được tiền.
Là người có lòng dạ ngay thẳng, thiện lương, vất vả nhiều.
Cơ thể suy nhược, nhưng ý chí kiên định; nên hành nghề tôn giáo hoặc sự nghiệp từ thiện; quan hệ hôn nhân không tốt, sinh hoạt tính giao không hòa điệu.
Tâm thuật bất chính, thiếu phúc khí, bụng dạ hẹp hòi, hay so đo tính toán, sẽ hại người lợi mình, quan hệ giao tế không tốt.
Khó được hường phúc ấm của tổ tiên; dễ xảy ra tình trạng li hôn; phong thủy có vấn đề.
Tư tường cực đoan, dễ tranh chấp với người khác, hay so đo tính toán.
Không hòa hợp với bạn bè đồng sự.
Duyên phận bạc với anh chị em, anh em không gần gũi, trong nhà bất hòa, dễ xảy ra tình trạng tranh giành gia sản.
Không nên cho người ta vay để lấy lãi.
Sự nghiệp của người phối ngẫu không kiếm được tiền, không đủ chi dụng trong gia đình.
Quan hệ hôn nhân không hòa điệu, khó trò chuyện trao đổi với nhau.
Trong công việc hay sự nghiệp, mệnh tạo phải nỗ lực vất vả, nhưng vận khí không tốt, khó khởi sắc.
Hôn nhân không được hạnh phúc, ít sum họp, không quan tâm chăm sóc nhau, khó sống với nhau đến đầu bạc, hoặc khó có hôn nhân.
Bụng dạ hẹp hòi, là người hay so đo tính toán.
Gia vận không thuận lợi, trong nhà khó hòa hợp, dễ xảy ra tình trạng tranh giành gia sản, tiền bạc không thuận lợi, khó kiếm tiền, ít có phước để hưởng.
Là mẫu người hay lo lắng thái quá, tính tình không cởi mở, hay rầu lo, ưu uất, vất vả, có khuynh hướng trầm cảm, tâm thần không yên ổn.
Bụng dạ hẹp hòi, hay so đo tính toán, không chịu nghi ngơi, sẽ tiêu xài nhiều tiền, không giữ tiền được.
Không có vận kiếm tiền, sức khỏe kém, vận trình nhiều trắc trở; công việc của người phối ngẫu không ổn định, vợ chồng dễ vì chuyện tiền nong mà xảy ra tranh chấp.
Vận trình của cha mẹ không thuận lợi, ít phát triển, sức khỏe
Mệnh tạo không nên làm người bảo lãnh, dê bị hao tài; cũng không nên cho người ta vay tiền để lấy lãi.
Sức khòe của mệnh tạo cũng không tốt, dễ mắc bệnh nặng. Thích nghiên cứu triết học, tôn giáo, tín ngưỡng.
Họ hàng ly tán.
Sáng sủa tốt đẹp: suốt đời may thường đi liền với rủi, về già được an nhàn. Họ hàng trước ly tán, sau quần tụ, càng ngày càng khá giả.
Mờ ám xâu xa: bạc phúc nên giảm thọ. Khó tránh được tai họa, thường phải lập nghiệp thật xa quê
hương, không mấy khi được xúng ý toại lòng. Trong họ có người tàn tật, chết non hoặc trộm cắp, du đãng.
Giảm thọ.
Sáng sủa tốt đẹp: suốt đời may thường đi liền với rủi. Trong họ có nhiều người qúy hiển, nhưng hay chết non.
Mờ ám xâu xa: suốt đời lao tâm khổ tứ, không mấy khi được xứng ý toại lòng. Khó tránh được tai họa. Họ hàng càng ngày càng sa sút.
Sáng sủa tốt đẹp: bạc phúc, suốt đời mưu sự buổi đầu thường trắc trở, về sau mới được hành thông, đắc ý. Trong cái may có chứa dựng nhiều cái rủi. Họ hàng khá giả, nhưng ly tán.
Mờ ám xấu xa: giảm thọ, khó tránh được tai họa. Phải lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, may ra mới được yên thân. Họ hàng càng ngày càng sa sút, ly tán.
Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sung sướng, vinh hiển và sống lâu. Trong họ có nhiều người đỗ đạt cao có danh giá.
Nhiều sao mờ ám xấu xa: giảm thọ, khó tránh được tai họa. Phải sớm xa gia đình, như thế may ra mới được yên thân. Họ hàng tuy khá giả, có người đỗ đạt cao, nhưng ly tán. Những người có danh giá lại hay mang tàn tật, ác bệnh, nếu không cũng chết non.
Tăng tuổi thọ
Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc vinh hiển và sống lâu. Trong họ có nhiều người đỗ đạt làm nên danh giá, lại thường có vĩ nhân hay thần đồng xuất hiện.
Nhiều sao mờ ám xấu xa: trong cái may có chứa đựng nhiều cái rủi. Nếu có danh giá, tất khó tránh được tai họa. Họ hàng mỗi ngày một suy bại.
Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sống lâu. Suốt đời hay gặp may mắn. Càng ở xa quê hương lại càng khá giả. Họ hàng qúy hiển giàu sang, nhưng không ở gần nhau.
Nhiều sao mờ ám xấu xa: bạc phúc nên giảm thọ. Khó tránh được tai họa. Phải lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, hay phải sớm xa gia đình, may ra mới được yên thân. Trong họ có người cùng khổ phiêu bạt, hoặc du đãng, bất lương, nếu không, cùng mang tàn tật, ác bệnh, hay mắc tai nạn mà chết một cách thê thảm. Họ hàng càng ngày càng ly tán, lụn bại.
Tăng tuổi thọ, được hưởng phúc, trong họ hiếm người và thường có sự tranh chấp bất hòa. Họ hàng khá giả nhưng ly tán.
Giảm thọ. Nên sớm xa gia đình, trong họ có nhiều người nghèo túng, phải đi biệt xứ.
Giảm thọ. Họ hàng ly tán, những người khá giả lại chết sớm.
Giảm thọ. Họ hàng hay oán trách lẫn nhau.
Tăng tuổi thọ. Càng ở xa quê hương lại càng khá giả. Trong họ có nhiều người hiển đạt, nhưng không ở gần nhau.
Không được hưởng phúc dồi dào, khó tránh được tai họa. Trong họ thiếu hòa khí, thường có sự tranh chấp lẫn nhau.
Được hưởng phúc. Trong họ có nhiều người khá giả.
Trong họ hiếm người.
Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc. Tránh được nhiều tai họa. Họ hàng khá giả.
Nhiều sao mờ ám xấu xa: giảm thọ, khó tránh được tai họa. Họ hàng càng ngày càng lụn bại.
Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sống lâu. Suốt đời hay gặp may. Trong họ có nhiều người qúy hiển giàu sang. Nhưng bao giờ đàn ba con gái cung khá giả hơn đàn ông con trai.
Nhiều sao mờ ám xấu xa: bạc phúc nên giảm thọ. Khó tranh được tai họa. Họ hàng càng ngày càng lụn bại, ly tán. Đàn bà con gái rất trắc trở về chồng con, lại có nhiều người dâm đãng.
Được hưởng phúc. Suốt đời hay gặp may mắn. Họ hàng khá giả.
Được hưởng phúc. Tránh được nhiều tai họa. Trong họ có nhiều người khá giả và nhân đức.
Lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương. Càng sớm xa gia đình lại càng khá giả. Họ hàng ly tán. Ngành , trưởng họ lụn bại.
Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: giảm thọ, khó tránh được tai họa. Suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng càng ngày càng ly tán lụn bại.
Nhiều sao mờ ám xấu xa: tăng thọ, tránh được nhiều tai họa. Mưu sự gay trắc trở buổi đầu, nhưng về sau lại hành thông toại ý. Họ hàng ngày càng khá giả.
Nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu có Tuần, Triệt án ngữ, hay có Tam Không hội hợp, phải luận đoán là được hưởng phúc sống lâu. Trái lại, nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu không có Tuần, Triệt án ngữ, hay không có Tam Không hội hợp, phải luận đoán là kém phúc (dù có sự hội hợp của nhiều sao sáng sủa tốt đẹp cũng thế). Nên chú ý nhận định những trường hợp đặc biệt sau đây:
Nhật, Nguyệt chiếu hư không: cung Phúc Đức vô Chính diệu có Nhật, Nguyệt sáng sủa tốt đẹp hội chiếu được hưởng phúc sống lâu, tránh được nhiều tai họa. Họ hàng khá giả, có nhiều người qúy hiển, giàu sang. Tổ tiên xa đời cũng đã có danh giá tiếng tăm còn lưu lại đến đời nay. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu lại có Tuần, Triệt án ngữ, hay có Tam Không hội hợp lại càng rực rỡ
Đà La độc thủ, cung Phúc Đức vô Chính diệu an tại Dần, Thân, có Đà La tọa thủ: được hưởng phúc, sống lâu. Suốt đời hay gặp may mắn. Họ hàng càng ngày càng khá giả, có nhiều người qúy hiển, văn võ toàn tài. Cũng trong trường hợp này, nếu Đà La gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ không được coi là Đà La độc thủ nữa.
Những người sinh vào giờ Sửu (1 giờ sáng đến 3 giờ sáng) và những người sinh vào giờ Mùi (1 giờ chiều đến 3 giờ chiều) đều có số Thân cư Phúc Đức. Trước khi nói đến những nét đặc biệt của mẫu người này chúng ta hãy bàn qua vài ý nghĩa căn bản của cung Phúc Đức.
Trong những phần trước chúng ta có nhắc đến một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là nếu Thân cư vào cung nào thì cung đó trở thành lãnh vực chính yếu trong cuộc sống của đương số. Bởi vậy, ý nghĩa đơn giản đầu tiên của cung Phúc Đức là nói về phước đức của đương số có được là do chính bản thân tạo dựng nên hay là do thụ hưởng từ ông bà, cha mẹ, hay của giòng họ nói chung.
Cho nên, từ quan niệm đó, khoa Tử Vi xem cung Phúc Đức như nền tảng của một lá số. Nó có thể cứu giải hay làm chiết giảm đi độ số tốt xấu của cung Mệnh hay của một đại hạn, tiểu hạn v.v…Nói một cách khác, cung Phúc Đức cũng như gốc rễ của một cái cây, nếu gốc rễ tốt thì cho dù một vài nhánh cây hư hỏng thì cây cũng có thể ra hoa, kết trái. Nếu gốc rễ đã bị úng thối thì cành cây bên trên dù có xanh tươi thì cũng chẳng được là bao lâu. Cũng có thể đơm hoa kết qủa những cũng không thể tồn tại lâu dài được.
Từ đó chúng ta có một quan điểm đặc biệt đầu tiên của người Thân cư Phúc Đức. Cuộc đời của họ sướng hay khổ, thành hay bại không hoàn toàn do chính khả năng của họ mà phần nào do những trợ lực khác như được người nâng đở, hay thường gặp những vận hội may mắn nào đó.
Điều này dễ nhìn thấy ở các lá số Thân cư Phúc Đức mà cung Phúc Đức lại được mọi điều tốt đẹp thì cuộc dời của những người này thường gặp được những may mắn kỳ lạ, giúp họ thành công dễ dàng, hoặc họ có thể vượt qua những hoàn cảnh khó khăn, tai nạn mà không ai có thể ngờ được.
Ngược lại, chúng ta cũng thấy có những người Thân cư Phúc Đức nhưng cung Phúc Đức lại xấu xa mờ ám, cho dù các cung chính yếu Mệnh, Tài, Quan…đều tốt đẹp nhưng chắc chắn cuộc đời của họ vẫn gặp nhiều cảnh thăng trầm. Như vậy, phải chăng đối với người Á Đông chúng ta thì Phúc Đức là một yếu tố siêu hình đã ảnh hưởng phần nào trong cuộc sống của một đời người?
Một quan niệm khác của khoa Tử Vi đối với cung Phúc Đức là cung này biểu tượng cho cả một giòng họ. Qua cung Phúc Đức mà chúng ta có thể nhìn thấy một cách đại cương về giòng họ của đương sự. Như vậy, những người có Thân cư Phúc Đức thì đặc điểm thứ hai chính là sự liên hệ chặc chẽ của cá nhân đương số với giòng họ của mình. Tùy theo sự tốt hay xấu và ý nghĩa của cung Phúc Đức. Có người tuy khả năng, tài đức không có gì đáng nói cả nhưng vẫn có địa vị chức tước hay bổng lộc nhờ vào sự nâng đở của bà con.
Ngược lại, cũng có người được may mắn, có công danh sự nghiệp, giàu sang phú quý, cũng vì cái tình gia tộc mạnh mẽ, họ phải vươn dài cánh tay đễ cưu mang cho cả giòng họ. Đó là trường hợp mà ông bà chúng ta thường nói: “Một người làm quan, cả họ được nhờ.” Và một điểm đặc biệt sau cùng của mẫu người này là những gì tốt xấu của cung Phúc Đức sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ sau khoản tiền vận, nghĩa là thời điểm đương số thực sự lăn lộn vào đời.
Cung đối diện Phúc Đức là Tài Lộc, và đó cũng là cung đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề những sự tốt, xấu của cung Phúc Đức. Cho nên người Thân cư Phúc Đức sẽ có những thay đổi khá rõ rệt trong khoản thời gian lập thân. Cuộc sống của họ có thể sung sướng hơn nếu cung Phúc Đức tốt đẹp, hoặc cực khổ hơn nếu cung Phúc xấu, nhất là trên vấn đề tiền bạc.
Tóm lại, mẫu người Thân cư Phúc Đức là những người có tinh thần gia đình, gia tộc rất mạnh. Họ thích cuộc sống đại gia đình và giữ được những liên hệ mật thiết với tất cả bà con trong giòng họ dù gần hay xa. Đây là mẫu người rất nặng tình quê hương. Họ thường lớn lên và sống suốt đời tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình chứ không muốn ly hương hay sống rời xa giòng họ của mình.
Đi xa hơn, cung Phúc Đức trên một lá số cũng tương tự như lãnh vực âm trạch của khoa Phong Thủy, tức là chuyên về mộ phần. Qua cung Phúc Đức, chúng ta có thể nhìn thấy những nét tổng thể về mộ phần của một giòng họ, như mộ phần của một người nào phát, mộ phần của ngườ nào hư, hoặc có thể biết được mộ phần của người nào đó trong giòng họ đã kết phát và đang đặc biệt phò trợ cho đương số.
Âm phần chi phối một phần lớn sự yểu thọ và phúc đức của một người cũng như sự tụ tán của cả một họ. Sau khi đã luận đoán phúc đức, cũng cần phải luận đoán âm phần để biết rõ ngôi mộ mà mình chịu ảnh hưởng.
Tuần:
Triệt:
Cung Phúc Đức có một Chính diệu tọa thủ: xem Chính diệu tượng trưng cho ngôi mộ nào, tất chịu ảnh hưởng của ngôi mộ đó.
Cung Phúc Đức có hai Chính diệu tọa thủ đồng cung phải nhận định tùy theo trường hợp sau đây:
Hai Chính diệu cùng thuộc một hành: chịu ảnh hưởng của cả hai ngôi mộ để ở gần nhau, mà mỗi ngôi đã được tượng trưng bởi một Chính diệu.
Thí dụ: Cung Phúc Đức an tại Sửu, có Cự, Đồng tọa thủ đồng cung. Vì Cự, Đồng cùng thuộc Thủy, nên phải chịu ảnh hưởng của ngôi mộ bác hay ông bác, tượng trưng bởi Cự và ngôi mộ tổ bốn đời tượng trưng bởi Đồng đế ở gần nhau.
Hai Chính diệu không thuộc một hành:
Một trong hai Chính diệu sinh được Bản Mệnh: chịu ảnh hưởng của ngôi mộ được tượng trưng bởi Chính diệu đó.
Thí dụ: Cung Phúc Đức an tại Dần, có Cự, Nhật tọa thủ đồng cung, Bản Mệnh thuộc Thổ. Nhật thuộc Hỏa, tượng trưng ngôi mộ ông nội hay cụ nội, sinh được Thổ Mệnh. Vậy Thổ Mệnh chịu ảnh hưởng của ngôi mộ ông nội hay cụ nội, được tượng trưng bởi Nhật. Còn Cự thuộc Thủy, tượng trưng ngôi mộ bác hay ông bác không sinh được Thổ Mệnh, nên được kể đến. Mặc dầu ngôi mộ bác hay ông bác, tượng trưng bởi Cự, để ở gần ngôi mộ ông nội hay cụ nội, tượng trưng bởi Nhật, cũng không có ảnh hưởng gì đối với Thổ Mệnh ở trên.
Một trong hai Chính diệu không sinh được Bản Mệnh: Xem Bản Mệnh sinh được Chính diệu nào, tất chịu ảnh hưởng của ngôi mộ được tượng trưng bởi Chính diệu đó.
Thí dụ: Cung Phúc Đức an Tại Mão, có Cự, Cơ tọa thủ đồng cung, Bản Mệnh thuộc Kim. Cơ thuộc Thủy không sinh được Kim Mệnh. Còn Cự thuộc Mộc lại khắc Kim Mệnh. Ngược lại Kim Mệnh sinh được Cự thuộc Thủy, tượng trưng ngồi mộ bác hay ông bác. Vậy Kim Mệnh chịu ảnh hưởng của ngôi mộ bác hay ông bác, tượng trưng bởi Cự, và không chịu ảnh hưởng của ngôi mộ ông nội, tượng trưng bởi Cơ, mặc dầu hai ngôi mộ này để ở gần nhau.
Một trong hai Chính diệu không sinh được Bản Mệnh, Bản Mệnh cũng không sinh được một trong hai Chính diệu. Xem Bản Mệnh hòa với Chính diệu nào, tất chịu ảnh hưởng của ngôi mộ được tượng trưng bởi Chính diệu đó.
Thí dụ: Cung Phúc Đức an tại Ngọ có Tướng, Liêm tọa thủ đồng cung, Bản Mệnh thuộc Thủy, Tướng thuộc Thủy, tượng trưng ngôi mộ chú hay ông chú. Liêm thuộc Hỏa, tượng trưng ngôi mộ tổ năm đời. Thủy Mệnh hòa với Tướng thuộc Thủy và khắc Liêm thuộc Hỏa. Vậy Thủy Mệnh chịu ảnh hưởng của ngôi mộ chú hay ông chú, tượng trưng bởi Tướng và không chịu ảnh hưởng của ngôi mộ tổ năm đời, tượng trưng bởi Liêm, mặc dầu hai ngôi mộ này để ở gần nhau.
Cung Phúc Đức vô Chính diệu: coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
Tóm lại, tác dụng của Cung Phúc Đức trong Lá Số Tử Vi là dùng để luận đoán về mặt tư tưởng, tinh thần của đương số, xem xét chuyên sâu về mặt nội tâm của nhân vật. Trong thực tế thì tinh thần thoải mái vui vẻ hay u uất buồn phiền rất có thể sẽ trái ngược với những thành quả mà người đó đạt được trong xã hội. Tuy nhiên, tiền bạc và tư tưởng là 2 phạm trù không thể tách rời. Chính vì thế mà cổ nhân đã đặt 2 cung Phúc Đức và Tài bạch xung chiếu nhau nhằm ám chỉ sinh hoạt tinh thần cỡ nào cũng ko tránh khỏi chữ Tiền…. Bạn đọc cần cân nhắc cẩn thận trước khi luận đoán Phúc Đức Cung…
Link nội dung: https://tuvitot.edu.vn/thai-duong-cung-phuc-duc-a25059.html