Thơ về các Tiết trong mùa Xuân của Nguyên Chẩn

*Mời nhấp chuột vô đây đọc 44 bài thơ Nguyên Chẩn

Dịch giả Nguyễn Thị Hải: 24 bài thơ ngũ ngôn luật về 24 tiết khí, được cho là của tác giả Nguyên Chẩn, nhà thơ đời Trung Đường. Ông dựa vào 72 hậu (năm ngày là một hậu, ba hậu là một tiết khí, sáu tiết khí là một mùa, bốn mùa là một năm) do người Trung Quốc cổ đại đúc rút ra trong tiến trình sinh sống và lao động sản xuất trong lưu vực sông Hoàng Hà.

Nguyễn Thị Hải

Lần đầu tiên, 24 tiết khí được viết đầy đủ thành thơ. Mỗi tiết mỗi mùa tái hiện những vật hậu tương ứng, gọi là “hậu ứng”. Có các thực vật hậu ứng như, cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa nở, lúa chín... Có động vật hậu ứng như, côn trùng kêu, chim hót, chim thú săn mồi, hồng nhạn thiên di... Có phi sinh vật hậu ứng như sấm, chớp, cầu vồng, mưa gió, băng đóng, băng tan... Phản ánh những diễn biến thông thường trong một năm và cho thấy một đời sống thuận ứng tự nhiên hài hoà, trôi chảy, cho thấy vạn vật bình đẳng, tự nhiên phô diễn sự sống của mình trong vòng tuần hoàn xuân hạ thu đông miên viễn.

Nguyên Chẩn元稹(779-831), tự Vi Chi 微之, quê Lạc Dương, Hà Nam. Ông và nhà thơ Bạch Cư Dị là đồng khoa tiến sĩ, kết làm bạn chí thân, cùng đề xướng phong trào “Tân Nhạc phủ”, được người đời gọi chung là “Nguyên Bạch”. Nguyên Chẩn vốn dòng dõi tôn thất Bắc Nguỵ, cha mất sớm, nhà nghèo, học giỏi, sớm đỗ đạt làm quan. Từng làm đến chức Tể tướng dưới thời vua Đường Mục Tông, sau bị giáng chức, điều làm quan bên ngoài.

Nguyên Chẩn lúc hàn vi có vợ là Vi Tùng, nhưng nàng sớm qua đời. Cái chết của nàng để lại dấu ấn sâu đậm trong các tác phẩm của ông.

*Âm nhạc cổ Trung Quốc đặt ra 12 dấu gọi là luật, gồm sáu luật dương và sáu luật âm, tương ứng với 12 tháng. Bắt đầu là luật dương Hoàng Chung, ứng với tháng 11, quẻ Phục. Tiếp đến là Đại Lữ (tháng 12), Thái Thốc (tháng 1), Giáp Chung (tháng 2), Cô Tẩy (tháng 3), Trọng Lữ (tháng 4), Nhuy Tân (tháng 5), Lâm Chung (tháng 6), Di Tắc (tháng 7), Nam Lữ (tháng 8), Vô Dịch (tháng 9), Ứng Chung (tháng 10).

*Bốn mùa Xuân hạ thu đông còn có tên gọi khác, Thanh Dương (mùa xuân), Chu Minh (mùa hè), Bạch Tàng (mùa thu), Huyền Anh (mùa đông).

MÙA XUÂN

1.

立春正月節

春冬移律呂,天地換星霜。

冰泮游魚躍,和風待柳芳。

早梅迎雨水,殘雪怯朝陽。

萬物含新意,同歡聖日長。

Lập Xuân (Tháng Giêng)

Xuân Đông di luật lữ,

Thiên địa hoán tinh sương.

Băng phán du ngư dược,

Hoà phong đãi liễu phương.

Tảo mai nghênh vũ thủy,

Tàn tuyết khiếp triêu dương.

Vạn vật hàm tân ý,

Đồng hoan thánh nhật trường.

dịch thơ:

Đông xuân âm giai chuyển,

Đất trời năm mới sang.

Băng tan đàn cá lượn,

Liễu tơ bay gió hiền.

Mai hé mong mưa nhuận,

Tuyết tàn ghê nắng lên.

Khắp nơi ngời xuân ý,

Vui chung ngày thánh minh.

*Lập Xuân: Sơ hậu, đông phong giải đống. Nhị hậu, trập trùng thủy chấn. Tam hậu, ngư trắc phụ băng. (Hậu thứ nhất, gió đông thổi, băng giá tan. Hậu thứ hai, côn trùng thức giấc. Hậu thứ ba, cá lội lên sát mặt băng).

2.

雨水正月中

雨水洗春容,平田已見龍。

祭魚盈浦嶼,歸雁過山峰。

雲色輕還重,風光淡又濃。

向春入二月,花色影重重。

Vũ thuỷ (tháng Giêng)

Vũ thủy tẩy xuân dung,

Bình điền dĩ kiến long.

Tế ngư doanh phố tự,

Quy nhạn quá sơn phong.

Vân sắc khinh hoàn trọng,

Phong quang đạm hựu nùng.

Hướng xuân nhập nhị nguyệt,

Hoa sắc ảnh trùng trùng.

dịch thơ:

Gương xuân mưa tắm gội,

Rồng thiêng hiện ngoài đồng.

Cá cúng quanh bờ nước,

Nhạn về qua đầu non.

Mây thoắt cơn sáng tối,

Đậm nhạt cảnh liền thay.

Sắp sang đến tháng Hai,

Điệp trùng hoa nở rộ.

*”Bình điền dĩ kiến long”. Người Trung Quốc cổ đại phân 28 chòm sao (Nhị thập bát tú) trên bầu trời theo bốn phương vị, bao gồm Đông phương Thanh Long, Tây phương Bạch Hổ, Bắc phương Huyền Vũ, Nam phương Chu Tước. Đông phương Thanh Long, tức rồng xanh ở phương Nam. Hằng năm vào mùa Xuân, chòm sao Thanh Long mọc lên bên trên mặt ruộng bằng phẳng, tức“kiến long tại điền” (thấy rồng ngoài ruộng).

*Vũ thủy: Sơ hậu, thát tế ngư. Nhị hậu, hậu nhạn Bắc. Tam hậu, thảo mộc manh động. (Hậu thứ nhất, rái rá bắt mồi, ăn không hết bỏ lại quanh bờ, nhìn như cúng tế. Hậu thứ hai, hồng nhạn thiên di về phương Bắc. Hậu thứ ba, cây cối đâm chồi nảy lộc).

3.

驚蟄二月節

陽氣初驚蟄,韶光大地周。

桃花開蜀錦,鷹老化春鳩。

時候爭催迫,萌芽互矩修。

人間務生事,耕種滿田疇。

Kinh Trập (Tháng Hai)

Dương khí sơ kinh trập,

Thiều quang đại địa chu.

Đào hoa khai Thục cẩm,

Ưng lão hoá xuân cưu.

Thời hậu tranh thôi bách,

Manh nha hỗ củ tu.

Nhân gian vụ sinh sự,

Canh chủng mãn điền trù.

dịch thơ:

Kinh trập ấm dương khí,

Đất đai ánh xuân hoà.

Đào tươi như gấm Thục,

Chim cưu vốn ưng già.

Thời tiết như giục giã,

Mầm non vượt trổ ra.

Nhà nông vào vụ mới,

Cày cấy khắp đồng xa.

*Kinh trập: Sơ hậu, đào thủy hoa. Nhị hậu, thương canh minh. Tam hậu, ưng hoá vi cưu.(Hậu thứ nhất, hoa đào nở. Hậu thứ hai, chim hoàng oanh hót. Hậu thứ ba, chim ưng hoá thành chim cưu). Nói chim ưng hoá thành chim cưu, kỳ thực là lúc này chim ưng đã vắng bóng trên bầu trời, thay vào đó, chim cưu xuất hiện ở mọi nơi.

4.

春分二月中

二氣莫交爭,春分雨處行。

雨來看電影,雲過聽雷聲。

山色連天碧,林花向日明。

梁間玄鳥語,欲似解人情。

Xuân Phân (Tháng Hai)

Nhị khí mạc giao tranh,

Xuân phân vũ xứ hành.

Vũ lai khan điện ảnh,

Vân quá thính lôi thanh.

Sơn sắc liên thiên bích,

Lâm hoa hướng nhật minh.

Lương gian huyền điểu ngữ,

Dục tự giải nhân tình.

dịch thơ:

Ấm lạnh thôi tranh thắng,

Xuân phân mưa khắp miền.

Dưới mưa xem chớp nháng,

Mây mù nghe sấm vang.

Núi xanh liền trời biếc,

Hoa nắng trải trên ngàn.

Xà ngang đàn chim én,

Những hiểu tình thế gian.

*Xuân phân: Sơ hậu, huyền điểu chí. Nhị hậu, lôi nãi phát thanh. Tam hậu, thủy điện. (Hậu thứ nhất, chim én bay đến. Hậu thứ hai, bắt đầu có sấm. Hậu thứ ba, bắt đầu có chớp).

5.

清明三月節

清明來向晚,山淥正光華。

楊柳先飛絮,梧桐續放花。

鴽聲知化鼠,虹影指天涯。

已識風雲意,寧愁雨谷賒。

Thanh Minh (Tháng Ba)

Thanh minh lai hướng vãn,

Sơn lục chính quang hoa.

Dương liễu tiên phi nhứ,

Ngô đồng tục phóng hoa.

Như thanh tri hoá thử,

Hồng ảnh chỉ thiên nhai.

Dĩ thức phong vân ý,

Ninh sầu vũ cốc xa.

dịch thơ:

Thanh minh khi chiều xuống,

Lấp lánh dòng suối trong.

Hoa liễu tuôn mờ xoá,

Ngô đồng phô trắng ngần.

Chuột hoá ra chim cút,

Cầu vồng ngỏ đường mây.

Đã tỏ lòng trời đất,

Còn lo chi mưa chầy?

*Thanh minh: Sơ hậu, đồng thủy hoa. Nhị hậu, điền thử hoá vi như. Tam hậu, hồng thủy kiến. (Hậu thứ nhất, ngô đồng ra hoa. Hậu thứ hai, chuột đồng hoá thành chim cút, ý nói chuột đồng kị nóng trốn vào hang, còn chim cút xuất hiện. Hậu thứ ba, cầu vồng bắt đầu xuất hiện).

6.

穀雨

穀雨春光曉,山川黛色青。

葉間鳴戴勝,澤水長浮萍。

暖屋生蠶蟻,喧風引麥葶。

鳴鳩徒拂羽,信矣不堪聽。

Cốc Vũ (Tháng Ba)

Cốc vũ xuân quang hiểu,

Sơn xuyên đại sắc thanh.

Diệp gian minh đới thắng,

Trạch thủy trưởng phù bình.

Noãn ốc sinh tàm nghĩ,

Huyên phong dẫn mạch đình.

Minh cưu đồ phất vũ,

Tín hĩ bất kham thinh.

dịch thơ:

Cốc vũ trong ngày rạng,

Vóc ngọc xanh mơ màng.

Đầu rìu kêu tán rậm,

Sóng sông trẩy lục bình.

Buồng ấm tằm mới nở,

Lúa tốt đùa gió nam.

Chải lông chim ngói lẻ,

Tiếng kêu nghe không đành.

*Cốc vũ: sơ hậu, bình thủy sinh. Nhị hậu, minh cưu phất kỳ vũ. Tam hậu, đới thắng giáng vu tang. (Hậu thứ nhất, lục bình sinh sôi. Hậu thứ hai, chim cưu hoặc gọi là chim ngói, bồ câu... chải lông, tìm bạn kết đôi, bước vào mùa sinh sản. Hậu thứ ba, đới thắng còn gọi là chim đầu rìu đáp xuống ruộng dâu).

NC.

Nguyễn Thị Hải dịch thơ

Facebook Hải Ngoại Gio O ngày 07-10-2020

Link nội dung: https://tuvitot.edu.vn/bai-tho-ve-24-tiet-khi-a20298.html